Tháng 1/2023, CPI tăng và PPI tiếp tục giảm

Cục Thống kê Quốc gia (NBS) hôm nay đã công bố dữ liệu CPI (chỉ số giá tiêu dùng) và PPI (chỉ số giá sản xuất) quốc gia cho tháng 1 năm 2023. Về vấn đề này, Cục trưởng Cục Thống kê Thành phố Cục Thống kê Dong Lijuan hiểu rõ.

 

1. CPI tăng

 

Trong tháng 1, giá tiêu dùng tăng do hiệu ứng Lễ hội mùa xuân và sự tối ưu hóa, điều chỉnh các chính sách phòng chống dịch bệnh.

 

Tính theo tháng, CPI tăng 0,8% so với tháng trước.Trong đó, giá lương thực tăng 2,8%, cao hơn 2,3 điểm phần trăm so với tháng trước, tác động đến mức tăng CPI khoảng 0,52 điểm phần trăm.Trong nhóm hàng thực phẩm, giá rau tươi, vi khuẩn tươi, hoa quả tươi, khoai tây và thủy sản tăng lần lượt 19,6%, 13,8%, 9,2%, 6,4% và 5,5%, cao hơn so với tháng trước do các yếu tố mùa vụ như Lễ hội Xuân.Do nguồn cung thịt lợn tiếp tục tăng, giá thịt lợn giảm 10,8%, tăng 2,1 điểm phần trăm so với tháng trước.Giá phi thực phẩm tăng 0,3% từ mức giảm 0,2% trong tháng trước, đóng góp khoảng 0,25 điểm phần trăm vào mức tăng CPI.Ở nhóm hàng phi thực phẩm, với việc tối ưu hóa và điều chỉnh các chính sách phòng chống dịch bệnh, nhu cầu đi lại, vui chơi giải trí tăng đáng kể, giá vé máy bay, phí thuê phương tiện, vé xem phim, biểu diễn, du lịch tăng 20,3 %, 13,0%, 10,7% và 9,3% tương ứng.Bị ảnh hưởng bởi việc người lao động nhập cư trở về quê trước kỳ nghỉ lễ và nhu cầu sử dụng dịch vụ tăng lên, giá dịch vụ dọn phòng, dịch vụ nuôi thú cưng, sửa chữa và bảo dưỡng phương tiện, làm tóc và các dịch vụ khác đều tăng từ 3,8% đến 5,6%.Bị ảnh hưởng bởi biến động giá dầu quốc tế, giá xăng và dầu diesel trong nước giảm lần lượt 2,4% và 2,6%.

 

So với cùng kỳ năm ngoái, CPI tăng 2,1%, cao hơn 0,3 điểm phần trăm so với tháng trước.Trong đó, giá lương thực tăng 6,2%, cao hơn 1,4 điểm phần trăm so với tháng trước, tác động làm tăng CPI 1,13 điểm phần trăm.Trong số các mặt hàng thực phẩm, giá vi khuẩn tươi, trái cây và rau quả tươi tăng lần lượt 15,9%, 13,1% và 6,7%.Giá thịt lợn tăng 11,8%, thấp hơn 10,4 điểm phần trăm so với tháng trước.Giá trứng, thịt gia cầm và thủy sản tăng lần lượt là 8,6%, 8,0% và 4,8%.Giá ngũ cốc và dầu ăn tăng lần lượt 2,7% và 6,5%.Giá phi lương thực tăng 1,2%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với tháng trước, đóng góp khoảng 0,98 điểm phần trăm vào mức tăng CPI.Trong nhóm hàng phi thực phẩm, giá dịch vụ tăng 1,0%, cao hơn 0,4 điểm phần trăm so với tháng trước.Giá năng lượng tăng 3,0%, thấp hơn 2,2 điểm phần trăm so với tháng trước, với giá xăng, dầu diesel và khí hóa lỏng tăng lần lượt 5,5%, 5,9% và 4,9%, tất cả đều chậm lại.

 

Tác động chuyển đổi của thay đổi giá năm ngoái ước tính khoảng 1,3 điểm phần trăm của mức tăng CPI 2,1% so với cùng kỳ năm ngoái của tháng 1, trong khi tác động của các đợt tăng giá mới ước tính khoảng 0,8 điểm phần trăm.Không bao gồm giá lương thực và năng lượng, CPI cơ bản tăng 1,0% so với cùng kỳ năm ngoái, cao hơn 0,3 điểm phần trăm so với tháng trước.

 

2. PPI tiếp tục giảm

 

Trong tháng 1, giá cả các sản phẩm công nghiệp tiếp tục giảm do ảnh hưởng của giá dầu thô quốc tế biến động và giá than trong nước giảm.

 

Tính theo tháng, PPI giảm 0,4%, thấp hơn 0,1 điểm phần trăm so với tháng trước.Giá tư liệu sản xuất giảm 0,5%, tương đương 0,1 điểm phần trăm.Giá phương tiện sinh hoạt giảm 0,3%, tương đương 0,1 điểm phần trăm.Các yếu tố nhập khẩu đã tác động đến việc giảm giá của các ngành liên quan đến xăng dầu trong nước, với giá khai thác dầu và khí tự nhiên giảm 5,5%, giá chế biến dầu, than và nhiên liệu khác giảm 3,2%, giá nguyên liệu hóa học và sản phẩm hóa chất sản xuất giảm 1,3%.Nguồn cung than tiếp tục tăng mạnh, với giá của ngành khai thác và rửa than giảm 0,5% từ mức 0,8% trong tháng trước.Thị trường thép được kỳ vọng cải thiện, giá ngành gia công luyện và cán kim loại màu tăng 1,5%, tăng 1,1 điểm phần trăm.Ngoài ra, giá của ngành chế biến nông sản và thực phẩm phụ giảm 1,4%, giá của ngành sản xuất thiết bị điện tử và truyền thông máy tính giảm 1,2% và giá của ngành dệt may giảm 0,7%.Giá công nghiệp luyện kim loại màu và gia công cán vẫn không thay đổi.

 

So với cùng kỳ năm ngoái, PPI giảm 0,8%, nhanh hơn 0,1 điểm phần trăm so với tháng trước.Giá tư liệu sản xuất giảm 1,4%, bằng với tháng trước.Giá phương tiện sinh hoạt tăng 1,5%, giảm 0,3 điểm phần trăm.Giá đã giảm ở 15 trong số 40 lĩnh vực công nghiệp được khảo sát, giống như tháng trước.Trong số các ngành công nghiệp chính, giá của ngành gia công luyện và cán kim loại màu giảm 11,7%, tương đương 3,0 điểm phần trăm.Giá nguyên liệu hóa chất và sản xuất hóa chất giảm 5,1%, bằng với tốc độ giảm của tháng trước.Giá nhóm hàng công nghiệp luyện và cán kim loại màu giảm 4,4%, tương ứng tăng 0,8 điểm phần trăm;Giá cả ngành dệt may giảm 3,0%, tương đương 0,9 điểm phần trăm.Bên cạnh đó, giá dầu mỏ, than đá và công nghiệp chế biến nhiên liệu khác tăng 6,2%, thấp hơn 3,9 điểm phần trăm.Giá khai thác dầu và khí tự nhiên tăng 5,3%, hay thấp hơn 9,1 điểm phần trăm.Giá khai thác và rửa than tăng 0,4% so với mức giảm 2,7% trong tháng trước.

 

Hiệu ứng chuyển đổi của những thay đổi về giá của năm ngoái và tác động của những đợt tăng giá mới được ước tính là khoảng -0,4 điểm phần trăm so với mức giảm 0,8% của PPI trong tháng Giêng so với cùng kỳ năm ngoái.


Thời gian đăng bài: Feb-10-2023